Lần Theo Dấu Ký Ức – Eric R. Kandel

Lần Theo Dấu Ký Ức Book Cover

Tác giả: Eric R. Kandel

Xuất bản: 11/07/2023

Bài viết: Tháng 9, 2025

Chắc hẳn trong mỗi chúng ta đều có những điều khiến ta nhớ mãi: sự ra đi của người mà ta yêu thương, sự dang dở của mối tình tuổi trẻ, sự vang vọng của tiếng gọi “Mẹ ơi”... Những nốt buồn vui này là nguyên liệu để bạn sáng tác giai điệu của riêng mình. Để khi chuyến tàu cuộc đời đi đến điểm cuối cùng, khi những con sóng xóa mờ dấu chân trên bờ cát, bạn rời đi và mãn nguyện.

“Không phải vì nhìn thấy hy vọng nên mới tiếp tục cố gắng, mà vì cố gắng kiên trì nên cuối cùng cũng thấy hy vọng.”

Suốt cả cuộc đời, hầu hết chúng ta đều phải đưa ra những quyết định quan trọng. Dù riêng tư hay công khai, thì chúng đều có liên quan tới hiểu biết sinh học về tâm trí.

“Từ góc nhìn của sinh học, cái chi phối chúng ta không phải là bản thân quá khứ, mà là những hình ảnh của quá khứ. Những hình ảnh đó thường có tính cấu trúc và chọn lọc cao như những câu chuyện thần thoại. Những hình ảnh và biểu tượng của quá khứ được in dấu lại trong tâm trí của chúng ta, gần giống như cách ghi dấu của thông tin di truyền. Mỗi trang kỷ nguyên mới đều phản ánh bản thân nó trong những câu chuyện sinh động và bức tranh của quá khứ.” – George Steiner

Khi nhìn lại, tôi thấy gia đình mình thật may mắn. Sau một năm đầy tăm tối và sợ hãi, lúc đó Ludwig 14 tuổi và tôi đã có thể rời khỏi Vienna để đến sống với ông bà tại New York, Mỹ. Mặc dù gia đình chúng tôi sống dưới chế độ Đức Quốc Xã trong một năm, nhưng những tủi nhục, nghèo khó, sợ hãi mà tôi cảm thấy trong giai đoạn này đã khiến nó trở thành một giai đoạn không thể quên của cuộc đời.

Nếu không có những chuyến du hành trong quá khứ, chúng ta chẳng thể nào nhận thức được bản thân mình, chẳng thể nào gợi lại được những kỷ niệm vui buồn trong mỗi chặng đường đời. Sự tiến hóa về văn hóa, một dạng thích nghi phi sinh học, diễn ra song song với quá trình tiến hóa sinh học như một cách truyền lại tri thức về quá khứ và hành vi thích nghi cho các thế hệ sau.

Tôi mới hiểu rằng, một trong những nguyên lý nền tảng của tâm lý học đó là: vô thức không bao giờ nói dối cả.

Một lý do chắc chắn quan trọng để giải thích hành động của người Vienna năm 1938 là chủ nghĩa cơ hội thuần túy. Những thành công của cộng đồng Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục đã tạo nên một lòng đố kỵ và khát khao trả thù của những người không phải Do Thái, nhất là trong các trường đại học. Chủ nghĩa bài Do Thái chủng tộc thì bắt nguồn từ niềm tin cho rằng tộc người Do Thái có sự khác biệt bề mặt di truyền với chủng tộc khác. Ý tưởng này có nguồn gốc trực tiếp từ học thuyết Deicide (giết Chúa), từ lâu đã được Giáo Hội Công Giáo La Mã rao giảng.

Frederick Schweitzer, nhà sử học Công giáo về lịch sử Do Thái, xác nhận rằng học thuyết này đã gieo vào tư tưởng của cộng đồng Công giáo suy nghĩ chính người Do Thái là kẻ đã giết Chúa.

Ông tốt nghiệp từ ba ngôi trường danh giá: Trường cấp hai thuộc chủng viện Do Thái Flatbush, trường cấp ba Erasmus Hall và đại học Harvard.

Nếu khoa học thuần túy chỉ được thúc đẩy bởi trí tò mò thì chúng ta cần hoan nghênh khi ai đó giải quyết được vấn đề nào đó. Thế nhưng, thường người ta không phản ứng như thế. Sự ghi nhận và tôn trọng từ đồng nghiệp chỉ dành cho người đầu tiên đóng góp vào kho kiến thức chung của nhân loại. Darwin cũng thừa nhận rằng “tòm yêu cho khoa học tự nhiên của ông được nuôi dưỡng rất nhiều nhờ khao khát sự công nhận của đồng nghiệp.”

Vào thế kỷ 19, muốn theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu, người ta phải có một nguồn tài chính độc lập. Khi nhìn vào tình hình tài chính ảm đạm của mình, Freud đã mở một phòng khám y khoa để kiếm thu nhập chu cấp cho những nhu cầu của vợ và gia đình. Nếu như sự nghiệp khoa học đủ để lo toan cuộc sống, thì có lẽ giờ đây ông ấy đã được biết đến như một nhà giải phẫu học, người đồng sáng lập học thuyết tế bào thần kinh thay vì là cha đẻ của phân tâm học.

Chỉ khi các sự kiện trở nên rõ ràng và những lời giải thích khác nhau được định hình sắc nét thì những giả thuyết đối lập mới đụng độ nhau. Và chỉ khi những ý tưởng được định hình sắc nét đụng độ nhau thì chúng ta mới có thể xác định được ý tưởng nào sai. Popper khẳng định với Eccles rằng trong nghiên cứu ở phe sai lầm cũng đâu có hề gì, bởi vì khoa học tuyệt vời nhất là ở chỗ nó có khả năng bác bỏ một giả thuyết nào đó.

Khi chứng kiến cuộc sống yên bình và văn minh mà sự di cư cưỡng ép đã mang mình đến đây, ông ấy đã thì thầm với sự mỉa mai điển hình của người Áo: “Hitler muôn năm!.”

Những người trẻ, về phần họ, cần phải luôn giữ một tinh thần cởi mở và tìm kiếm những nơi tập trung những trí tuệ tuyệt vời nhất.

Theo nghĩa rộng hơn, thì học tập và trí nhớ là nền tảng xây dựng nên bản sắc của chúng ta. Nó biến chúng ta thành con người như chúng ta bây giờ.

Khi chúng ta nói, chúng ta không cần phải nghĩ về vị trí của danh từ hoặc động từ trong một câu. Chúng ta làm điều ấy một cách tự động, vô thức. Đó là một kiểu học tập phản xạ đã được các nhà hành vi học nghiên cứu, trong đó có Pavlov, ThornDike và Skinner. Quả thật, sự lặp lại liên tục có thể chuyển trí nhớ tường thuật thành trí nhớ ngầm. Cuối cùng, việc đi xe đạp trở thành một hoạt động tự động và vô thức.

Phần lớn hành động của chúng ta là vô thức. Câu hỏi ký ức được lưu trữ “bằng cách nào” đã trở thành một câu hỏi khoa học đầy ý nghĩa đối với tôi.

Felix đã chẳng nói chuyện với tôi nữa. Tôi không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Rồi theo thời gian tôi hiểu rằng thế giới khoa học không chỉ có niềm đam mê đối với các ý tưởng mà còn có đầy rẫy tham vọng và sự phấn đấu của mỗi cá nhân trong từng giai đoạn sự nghiệp. Phải tới nhiều năm sau đó, Felix mới nối lại tình bạn của chúng tôi và giải thích rằng anh ấy cảm thấy tủi nhục khi hai nhà khoa học thiếu kinh nghiệm và kém cỏi trong mắt anh ấy lại có thể tạo ra những kết quả thực nghiệm thú vị và quan trọng như thế.

Tôi đã rất sợ rằng mình sẽ cạn kiệt ý tưởng và sẽ chẳng thể tồn tại được lâu trong khoa học. Tôi lại càng thấy bất an hơn khi John Eccles và nhiều nhà khoa học lỗi lạc khác mà tôi tôn trọng nghĩ rằng tôi đang có một bước đi sai lầm nghiêm trọng khi chuyển từ nghiên cứu hồi hải mã ở động vật có vú với sự khởi đầu đầy hứa hẹn sang nghiên cứu lại từ đầu với động vật không xương sống mà hành vi của chúng chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Nhưng có ba điều đã khuyến khích tôi tiến về phía trước: một là quy tắc Kuffler-Grundfest trong nghiên cứu sinh học: mỗi vấn đề sinh học đều có một sinh vật phù hợp để nghiên cứu. Hai là tôi muốn làm... người ta phải tin vào vô thức của mình, vào bản năng và sự thôi thúc sáng tạo của chính bản thân mình. Ba là Denise, vợ luôn ủng hộ khiến tôi đã dũng cảm tin tưởng và tiến về phía trước.

Thế rồi vào một chiều chủ nhật, tôi đang làm việc tại phòng nghiên cứu và Denise đã đến, cô ấy hét lên với tôi: “Anh không thể tiếp tục như thế này mãi được! Anh chỉ nghĩ đến bản thân và công việc của mình thôi! Anh hoàn toàn bỏ mặc mẹ con tôi!” Tôi sửng sốt và đau tột cùng. Tôi thực sự đã rất đam mê công việc nghiên cứu, tôi thấy niềm vui ở đó và cả nỗi lo lắng mỗi khi thí nghiệm thất bại, mà thường xuyên là như vậy, đến nỗi tôi đã chẳng hề nhận ra rằng tôi đã bỏ mặc hay đẩy Denise và Paul xuống hàng thứ hai, hay tôi đã thôi yêu họ. Đáp lại, tôi đã quyết định dành nhiều thời gian hơn để ở nhà với cô ấy và Paul.

Ngày xưa, có một chú cáo từ khi sinh ra đến nay chưa bao giờ nhìn thấy chú rùa nào cả, bởi vậy chú đã sợ chết khiếp khi lần đầu tiên gặp một con rùa trong khu rừng nọ. Lần thứ hai gặp rùa, cáo ta vẫn còn rất sợ hãi, thế nhưng không đến mức như lần đầu. Và đến lần thứ ba, chú ta đã táo bạo hơn rất nhiều và tiến lại gần rồi bắt chuyện với rùa kia.

Tôi đã từng có rất nhiều khoảng khắc chán nản, mệt mỏi và thất vọng, nhưng tôi luôn thấy bằng việc đọc tài liệu, đến phòng nghiên cứu nhìn các dữ liệu mới ra mỗi ngày và trao đổi với học trò, với những nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, tôi sẽ có thêm ý tưởng về những gì cần làm tiếp theo. Rồi sau đó, chúng tôi sẽ thảo luận không ngừng về những ý tưởng này. Và khi tôi bắt đầu tiếp cận một vấn đề mới, tôi đắm mình trong khối tài liệu viết về nó.

Trong quãng thời gian sống ở Pháp, lần đầu tiên tôi ở châu Âu lâu như thế kể từ khi rời Vienna năm 1939, tôi đã có cơ hội được đối diện thẳng thắn với những con ác quỷ của chính mình. Dù quãng thời gian này, việc nghiên cứu rất hiệu quả và những trải nghiệm văn hóa rất đa dạng, thú vị, nhưng đôi lúc tôi vẫn cảm thấy cực kỳ đơn độc và cô đơn. Xã hội Pháp và nền khoa học Pháp có sự phân cấp bậc rất cao và tôi thì là một nhà khoa học tương đối vô danh nằm ở vị trí thấp nhất của nấc thang ấy.

Nếu tôi ở lại Boston, có lẽ cuối cùng, tôi sẽ theo lời khuyên của người phân tích và mở một phòng khám nhỏ. Điều đó sẽ không có bất kỳ khó khăn gì đối với tôi tại Boston vào năm 1965. Hơn nữa, tôi cũng biết năng lực có hạn của mình. Tôi thực sự làm tốt nhất khi tập trung mỗi lúc một việc. Tôi biết rằng nghiên cứu về học tập ở Aplysia là tất cả những gì tôi có thể thực hiện vào thời điểm này trong sự nghiệp của mình. Và tôi đã quyết định rời Harvard và môi trường lâm sàng tại đây để làm việc tại một vị trí trong phòng nghiên cứu cơ bản tại ngôi trường cũ của tôi, khoa y Đại Học New York.

Tôi đã ghim hai mục đích cần thực hiện cho những năm tiếp theo. Đầu tiên, phát triển một danh mục chi tiết các hành vi của Aplysia và xác định hành vi nào có thể bị thay đổi bởi quá trình học tập. Sau đó, chọn nghiên cứu một hành vi trong số đó để khám phá ảnh hưởng chính xác của quá trình học tập và sự lưu trữ ký ức.

Chúng tôi đã phát hiện ra rằng, quá trình học tập dẫn đến những thay đổi ở lực kết nối synap, và do đó dẫn đến những thay đổi trong hiệu quả kết nối giữa các tế bào cụ thể trong mạng lưới thần kinh điều hòa hành vi đó. Các thí nghiệm hành vi cho thấy trí nhớ ngắn hạn có thể dần dần biến thành trí nhớ dài hạn và hơn nữa nhờ sự lặp lại.

Ebbinghaus đã đưa ra hai nguyên tắc: thứ nhất, ông phát hiện ra rằng trí nhớ được hình thành dần dần - nói cách khác là “có công mài sắt, có ngày nên kim.” Thứ hai, mặc dù có sự tương đồng rõ ràng về cơ chế giữa trí nhớ ngắn hạn và dài hạn, Ebbinghaus nhận thấy rằng với danh sách khoảng 6 hoặc 7 từ, ông ấy chỉ cần đọc to lên một lần là học thuộc, còn danh sách dài hơn thì phải đọc to thêm nhiều lần hơn.

Ký ức, nên việc học lại sẽ đỡ tốn thời gian hơn và cần ít nỗ lực hơn so với ban đầu.

Năm 1890, William James đã kết luận trí nhớ phải được xây dựng trên ít nhất hai quá trình khác nhau: một quá trình xảy ra trong thời gian ngắn - mà ông ấy gọi là “trí nhớ sơ cấp”- và một quá trình dài hạn- mà ông ấy gọi là “trí nhớ thứ cấp”. Đối với trí nhớ dài hạn, ông ấy sử dụng thuật ngữ thứ cấp, bởi vì nó ám chỉ việc có thể gợi lại một kỷ niệm cách đó ít lâu sau lần học đầu tiên - sơ cấp.

Vào mùa thu năm 1973, Alden Spencer, người bạn tốt nhất của tôi và là người cùng tôi sáng lập ra khoa sinh học thần kinh và hành vi tại đại học New York, được chuẩn đoán bệnh teo cơ và qua đời vài năm sau đó. Sự ra đi của anh ấy khiến mỗi người chúng tôi thấy choáng váng, và khiến cả nhóm gắn bó thân thiết của chúng tôi đau buồn khôn tả. Từ gần 20 năm nay, ngày nào chúng tôi cũng trò chuyện với nhau, bởi vậy, sau khi anh ra đi, nhịp làm việc của tôi cũng bị đảo lộn trong một thời gian dài.

Sau khi Alden mất năm 1977, bố tôi cũng mất trong năm đó, rồi anh trai tôi vào năm 1981. Mỗi lần, tôi đều ở bên cạnh chăm sóc họ rất nhiều, và sự ra đi của họ không chỉ khiến tôi chán nản và suy sụp về mặt tâm lý mà cả cơ thể tôi cũng rã rời.

Các gen cũng đóng góp vào quá trình học tập.

Tôi biết rằng sự chú ý không chỉ là sức mạnh bí ẩn của não bộ mà còn là một quá trình điều biến. Hơn nữa, chúng ta biết rằng con đường điều biến liên quan chặt chẽ với các hiện tượng gắn liền với sự chú ý là con đường được điều hòa bởi dopamine. Các tế bào sản xuất ra dopamine thì tập trung ở vùng não trung gian và có sợi trục phóng tới hồi hải mã.

Bất kỳ ai làm việc về trí nhớ đều nhanh chóng nhận ra nhu cầu cấp thiết của các loại thuốc cải thiện trí nhớ bị tổn hại do bệnh hoặc sự lão hóa. Tuy nhiên nó cũng làm dấy lên những vấn đề đạo đức liên quan tới sự cải thiện nhận thức. Liệu có nên cải thiện trí nhớ ở những người bình thường? Liệu có nên để những người trẻ sử dụng các loại thuốc tăng cường trí nhớ trước kỳ thi?

Nỗi sợ là một đáp ứng bản năng, xảy ra với mọi cá nhân trước một mối đe dọa đối với cơ thể hoặc vị thế trong xã hội của mình, do đó nó có vai trò quan trọng cho sự sinh tồn. Leo Tolstoy: “Các gia đình hạnh phúc đều giống nhau, nhưng gia đình bất hạnh thì mỗi nhà mỗi kiểu.”

Có nhiều nghiên cứu nhận thấy họ có thể đảo ngược hội chứng Parkinson bằng cách bổ sung thêm dopamine cho bệnh nhân. Cũng trong quá trình nghiên cứu, Carlsson đã quan sát thấy khi bệnh nhân nhận quá liều dopamine, họ xuất hiện những triệu chứng loạn thần tương tự triệu chứng trong tâm thần phân liệt.

Có thể dễ dàng tóm tắt các đặc điểm của trầm cảm. Mượn lời Hamlet: “Đối với tôi, tất cả mục đích trong thế giới này thật mệt mỏi, chán chường, tẻ nhạt và vô vị làm sao!” Người bị trầm cảm thường ngủ kém, ăn không ngon miệng, sụt cân, cạn kiệt năng lượng, giảm ham muốn tình dục và suy nghĩ chậm chạp.

Các bằng chứng đặc biệt rõ rệt trong trường hợp của serotonin, chất có liên quan mạnh mẽ tới tâm trạng của con người: Nồng độ serotonin cao thì cảm giác dễ chịu, trong khi đó nồng độ serotonin thấp thì dẫn tới các triệu chứng của trầm cảm. Quả thật, những người có xu hướng tự tử cao thường có nồng độ serotonin cực kỳ thấp.

Những bệnh nhân trầm cảm thể hiện những thái độ tiêu cực có hệ thống trong cách nghĩ về cuộc sống. Họ gần như lúc nào cũng có kỳ vọng cao phi thực tế về chính bản thân, phản ứng thái quá trước bất kỳ sự thất vọng nào, tự hạ mình xuống ngay khi có thể và bi quan về tương lai của chính mình.

Tôi đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng làm việc trong phòng thí nghiệm, làm khoa học cùng với những con người thú vị và sáng tạo, thì vô cùng khác với việc học các môn học và đọc sách về khoa học.

Tóm lại, trong suốt sự nghiệp, tôi đã trải qua rất nhiều khoảnh khắc vui sướng tột độ, những hoạt động hàng ngày như tiếp thêm sinh lực về mặt trí tuệ một cách tuyệt vời. Cũng có những thời điểm tôi cảm thấy cô đơn, hoài nghi và chẳng thấy có một lối mòn quen thuộc nào để đi. Mỗi khi tôi cất bước vào một chặng đường mới thì đều có người là bạn bè xã hội hay những đồng nghiệp khoa học khuyên tôi không nên làm điều đó dù họ xuất phát từ thiện ý. Tôi phải sớm học cách làm quen với những bất an và tin tưởng vào đánh giá của mình về những vấn đề then chốt. Nhưng với hầu hết chúng ta, những lời cảnh báo đừng tiến về phía trước chỉ khơi gợi nên tinh thần phiêu lưu mà thôi. Quyết định về sự nghiệp khó khăn nhất trong cuộc đời tôi là rời bỏ cuộc sống đảm bảo của một bác sĩ tâm thần để chuyển sang lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều mông lung. Trước khi dấn thân vào một vấn đề khoa học mới mẻ, tôi đặt ra cho nó hai yêu cầu. Thứ nhất, nó phải cho phép tôi mở ra một lĩnh vực mà tôi có thể gắn bó lâu dài. Tôi thích những kiểu cam kết lâu dài, chứ không phải những mối tình lãng mạn ngắn ngủi. Thứ hai, tôi thích giải quyết những vấn đề nằm ở ranh giới của hai hay nhiều lĩnh vực. Hầu hết các nhà khoa học thần kinh giờ đều đồng tình với quan điểm phần lớn đời sống tinh thần của chúng ta là vô thức, và nó chỉ có thể trở nên có ý thức thông qua ngôn từ và hình ảnh. Thử một điều gì đó mới đều dẫn tới lo lắng nhưng đồng thời cũng rất phấn khích. Thà mất vài năm thử làm điều gì đó mới mẻ và căn bản, hơn là thực hiện những thí nghiệm thường quy mà mọi người đang làm và những người khác có thể làm tốt như nếu không muốn nói là hơn bạn. Và vì thế, tôi đã không trải qua cảm giác khó chịu mà một số đồng nghiệp của tôi gặp phải khi ở tuổi trung niên - họ cảm thấy nhàm chán với lĩnh vực khoa học đang làm và muốn chuyển sang làm những thứ khác. Từng được đào tạo về lịch sử và nhân văn, nơi người ta đã sớm biết được rằng cuộc sống có thể buồn tẻ như thế nào, tôi đã rất vui khi cuối cùng đã chuyển sang sinh học, nơi vẫn còn rất nhiều sự lạc quan ảo tưởng. Và nhờ đi theo bản năng của mình, theo những quá trình suy nghĩ vô thức trong tôi, rồi sau đó chú ý đến một tiếng gọi vọng lại từ một nơi xa xăm nào đó, tôi đã được đưa đến một cuộc sống mà tôi thích thú vô cùng.

Những hình ảnh đọng lại trong tâm trí:

Bạn có nên đọc quyển này?
Nếu bạn quan tâm đến khoa học thần kinh, yêu thích lịch sử, hoặc muốn hiểu sâu hơn về ký ức, về bản sắc và ý nghĩa của cuộc đời, thì đây là một cuốn sách không nên bỏ lỡ.

Back to Bookshelf